Quá trình xây dựng Luật_Bình_đẳng_giới_(Việt_Nam)

Cơ sở pháp lý

Về cơ sở pháp lý, Hiến pháp năm 1946 có quy định: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" và "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" hay "Tất cả công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái trai đều có quyền bầu cử…" Tiếp đến Điều 63 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hộigia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ". Từ Điều 53 đến Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định các quyền, nghĩa vụ công dân, trong đó, quy định quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Chủ trương

Về chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn chung đồng tình với vấn đề bình đẳng giới cụ thể là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam có nêu "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Và sau đó là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng nêu "Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người".

Dựa trên các cơ sở pháp lý cao nhất và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới, để thể chế hóa thêm một bước các quyền bình đẳng giới, Quốc hội Việt Nam đã xây dựng và thông qua Luật Bình đẳng giới.